Những bài hát ám ảnh về Paris qua các thập kỉ

49
1242
Những bài hát ám ảnh về Paris qua các thập kỉ

Paris đã truyền cảm hứng cho vô số nhạc sĩ và tác giả sáng tác trong những năm qua. Bỏ qua những khuôn sáo và lăng kính màu hồng để hướng đến những bài hát chân thực về Kinh đô ánh sáng.



Những năm 1920 - Georgius, 'La Plus Bath des Javas'

Đây là một câu chuyện tình yêu hay như bất kỳ bộ phim truyền hình nào của Emile Zola, tràn ngập sự hài hước và lối nói chuyện điển hình của người Paris. Julot gặp Nana tại một bal musette, họ phải lòng nhau và bắt đầu 'làm việc' để kiếm tiền cho gia đình của họ. Nana trở thành gái mại dâm và Julot phải ngồi tù vì giết một cảnh sát trong khi bị bắt trộm trong tàu điện ngầm. Vài tháng sau, trên đường về nhà, Nana đi ngang qua nhà tù và nhận ra rằng Julot đã bị kết án tử hình. Bài hát kết thúc với cảnh Julot gục đầu xuống máy chém.

'À, écoutez ça si c'est chouette! Ah, c'est la plus bath des javas! '

' Nghe cái này, có dễ chịu không? Ah, đó là java tuyệt vời nhất ! '

Những năm 1930 - Josephine Baker, 'J'ai Deux Amours'

Người Paris nhiều nhất trong số tất cả các nghệ sĩ biểu diễn người Mỹ - hoặc có lẽ là người Mỹ nhiều nhất trong số tất cả người dân Paris - thú nhận tình yêu của cô ấy với Paris trong bài hát năm 1930 đã tiết lộ cô ấy trước công chúng. Sau đó, cô đã biểu diễn trong một chương trình tạp kỹ kỳ lạ được tổ chức trong Triển lãm Thuộc địa, một sự kiện mà người bản địa và văn hóa của các thuộc địa Pháp được giới thiệu với công chúng Paris. Baker, một phụ nữ Mỹ gốc Phi sinh ra ở St. Louis, Missouri, đã trở thành nàng thơ của nền nghệ thuật Paris trong suốt những năm 1930 và nhập quốc tịch Pháp vào năm 1937.

'J'ai deux amours, mon pay et Paris.'

'Hai tình yêu của tôi là đất nước của tôi và Paris.'

Những năm 1940 - Maurice Chevalier, 'Fleur de Paris'

Được phát hành ngay sau khi Paris được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc xã vào năm 1944, bài hát vui tươi này nhanh chóng trở thành quốc ca của thời kỳ đổi mới ở thủ đô nước Pháp. Sự kết hợp của nhịp điệu vui tươi, giai điệu hạnh phúc, ẩn dụ mùa xuân và rất nhiều tinh thần yêu nước đã làm nên thành công ngay lập tức. Nó cũng có thể giúp Maurice Chevalier xóa tên của mình về các cáo buộc cộng tác trong thời gian chiếm đóng. Ồ, và nếu giọng của Chevalier nghe có vẻ quen thuộc, thì có lẽ bạn đã từng nghe nó trong bài hát mở đầu của bộ phim truyện The Aristocats năm 1971 của Disney .

'Mặt dây chuyền quatre ans dans nos cœurs elle a gardé ses couleurs: bleu, blanc, rouge, avec l'espoir elle a fleuri, fleur de Paris!'

'Trong suốt bốn năm trong trái tim chúng tôi, nó vẫn giữ màu sắc của nó: xanh, trắng và đỏ, và với hy vọng nó đã nở, bông hoa của Paris! "

Những năm 1950 - Cora Vaucaire, 'La Complainte de la Butte'

Bạn có thể nhớ bài này từ Moulin Rouge nổi tiếng của Baz Luhrmann. Nhưng không lâu trước đó, bài hát đã được đạo diễn Jean Renoir (con trai của họa sĩ nổi tiếng Pierre-Auguste Renoir) sáng tác cho một bộ phim khác là French Cancan vào năm 1954. Bài hát kể về câu chuyện của một nhà thơ đau khổ vì đã thất tình với một cô gái đường phố ở Montmartre và mất cô ấy. Sau đó, anh sáng tác bài hát với hy vọng có thể gặp lại cô.

'Les escaliers de la Butte sont durs aux miséreux; les ailes des moulins protègent les amoureux. '

'Những bậc thang lên đồi đau đớn cho những người nghèo nhất; cánh cối xay gió che chở cho những người yêu nhau. '

Nếu bạn đã từng leo lên Montmartre, chắc chắn bạn sẽ hiểu được cuộc đấu tranh.

Những năm 1960 - Jacques Dutronc, 'Il Est Cinq Heures, Paris S'Éveille'

Từ những người thợ làm bánh đang nhào bột bánh mì đến những công nhân trong lò mổ Villette, từ những chuyến tàu đầu tiên ở ga Montparnasse đến tháp Eiffel đầy sương mù… Bài hát của Jacques Dutronc giống như một bức tranh sống động của Paris vào những giờ sáng sớm, chuyển sang những nốt nhạc kỳ thú nghệ sĩ độc tấu sáo. Là một thần tượng thực sự của thập niên 1960, Dutronc luôn có hình ảnh một tay chơi và bài hát này cũng không ngoại lệ: trong khi những người khác thức dậy để đi làm thì anh ấy lại trở về nhà sau một đêm dài đi chơi.

'Il est cinq heures, Paris se lève; il est cinq chữa bệnh, je n'ai pas sommeil… '

'Đã 5 giờ sáng, Paris đang thức dậy; 5 giờ sáng, tôi không cảm thấy buồn ngủ… '

Những năm 1970 - Renaud, 'Amoureux de Paname'

Renaud đã là một cái tên quen thuộc ở Pháp trong khoảng bốn thập kỷ. Các bài hát của anh ấy có thể thơ mộng, nhẹ nhàng và vui nhộn, cũng như tàn nhẫn, đen tối và sâu lắng. Là người thừa kế thực sự của các cuộc biểu tình của sinh viên tháng 5 năm 1968, ông thường kể những câu chuyện về các nhân vật thuộc tầng lớp lao động đang đấu tranh để tồn tại ở Paris và các vùng ngoại ô. Sử dụng một trong những khẩu hiệu nổi tiếng nhất của tháng 5-1968, Renaud mỉa mai nhưng thực sự tuyên bố tình yêu của mình với Paris phủ nhựa đường (biệt danh là Paname của người dân Paris) và chặn miệng của bất kỳ ai thà sống ở nông thôn.

'Moi j'suis amoureux de Paname, du béton et du macadam. Sous les pavés, ouais, c'est la plage! '

'Tôi yêu Paname, bê tông và đá dăm. Dưới lớp đá cuội là bãi biển! '

Những năm 1980 - Taxi Girl, 'Paris'

Từ những năm 1980 trở đi, các bài hát về Paris trở nên đáng phê phán hơn. Paris đã thất bại trong việc mê hoặc người Paris và không còn xuất hiện như một thủ đô của tình yêu và sự lãng mạn. Bộ đôi người Pháp Taxi Girl hát sự thất vọng của họ về một thành phố bẩn thỉu, hôi hám và ô nhiễm, nơi không có gì xảy ra. Bài hát và video clip mang đến sự rung cảm của những năm 1980 này và khám phá chủ đề làn sóng mới: những tâm trí bị tra tấn lang thang không có mục đích trong một thành phố quá lớn, quá đầy đủ để chào đón thế hệ mới. Các thành viên của Taxi girl Daniel Darc và Mirwais Stass đều có sự nghiệp solo thành công trong những năm sau đó. Sau này đáng chú ý đã sản xuất ba trong số các album của Madonna vào đầu thế kỷ 21.

'C'est Paris. On ne sait pas ce qu'on tham dự, mais ça n'a pas d'importance parce que ça ne viendra pas. '

'Đây là Paris. Chúng tôi không biết mình đang chờ đợi điều gì, nhưng điều đó không quan trọng vì nó sẽ không bao giờ xảy ra. '

Những năm 1990 - Doc Gynéco, 'Dans Ma Rue'

Từ khóa của hip-hop Pháp những năm 1990 chắc chắn là 'chủ nghĩa đa văn hóa'. Trong khi nhiều ban nhạc đọc rap về cuộc sống của họ ở các vùng ngoại ô, nơi con cái của những người nhập cư phải đối mặt với nghèo đói, phân biệt chủng tộc và tội phạm, thì Doc Gynéco lại đưa nó vào trong các bức tường của Paris. Anh ấy miêu tả chân thực về quận 18, một trong những quận nghèo nhất ở Paris, mắc tội phạm nhỏ và buôn bán ma túy, nhưng cũng là nơi những người thân thiện từ mọi tầng lớp xã hội đã phát triển một ý thức cộng đồng nhất định để sống cùng nhau và giúp đỡ lẫn nhau.

'Dans ma rue pour Communiquer il faut être trilingue et faire quand sự chú ý trên marche sur des seringues.'

"Trên đường phố của tôi để giao tiếp, bạn phải nói được ba thứ tiếng và cẩn thận không dẫm lên ống tiêm."

Những năm 2000 - Florent Pagny, 'Châtelet Les Halles'

Làm thế nào để thoát khỏi cuộc sống khi tất cả những gì bạn có thể mua được là một chiếc vé tàu điện ngầm? Bài hát của Florent Pagny diễn ra trong hành lang ngột ngạt của một trong những ga tàu điện ngầm lớn nhất và bận rộn nhất Paris: Châtelet Les Halles. Nó trở thành một thiên đường cho những ai sẽ không bao giờ có cơ hội nhìn thấy những bãi biển tuyệt đẹp ngoài những quảng cáo dán trên tường của nhà ga.

'Le samedi après-midi prendre des souterrains. Aller voir où ça vit de l'autre côté, ligne 1. '

' Vào chiều thứ bảy, đi bộ trên hành lang ngầm để đến nơi cuộc sống diễn ra ở phía bên kia, dòng 1. "

Những năm 2010 - Oxmo Puccino, 'Pam Pa Nam'

'Pam Pa Nam' của Oxmo Puccino là một ca khúc đương đại về thủ đô nước Pháp. Bài hát này nói về Paris như nó vốn có, đơn giản, tốt và xấu. Tiêu đề của bài hát gợi nhớ đến chữ ký ba nhịp giống điệu valse và ẩn giấu biệt danh của Paris, Paname. Oxmo Puccino nổi tiếng trong làng nhạc rap với lối viết thơ mộng, những ẩn dụ mạnh mẽ và giọng hát trầm ấm. Ở đây, Paris giống như một con quái vật nhẹ nhàng nhưng đáng sợ trong một phép ẩn dụ, trong đó mạng lưới tàu điện ngầm trở thành mạch máu của thành phố và nhiên liệu của những người đi lại.

'Des Gloules métissés Cirent dans les artères bouchées du cannibale aux mille-pattes métalliques roulant dans ses bouches qui à l'aube crachent des gens qui baillent, et les mangent aux heures de pointe.'

'Các tiểu thể hỗn hợp chủng tộc chảy trong động mạch bị tắc nghẽn của kẻ ăn thịt người chứa đầy rết cơ học; miệng nó ngáp những người đang ngáp vào lúc bình minh, và ăn thịt họ vào giờ cao điểm. '

Share để lưu lại bài này

Một vài bài hay khác